Hiện trạng xử lý bùn tại các nhà máy xử lý nước thải đô thị: Nghiên cứu điển hình tại thành phố Đà Nẵng
Abstract
Nghiên cứu trình bày kết quả đánh giá hiện trạng xử lý bùn tại hai trạm xử lý nước thải (XLNT) điển hình ở Thành phố Đà Nẵng là trạm XLNT Hòa Xuân và trạm XLNT Sơn Trà. Lượng nước thải xử lý vào các tháng mùa khô của trạm XLNT Hòa Xuân đạt 34% so với công suất, trong khi trạm XLNT Sơn Trà đã vượt công suất thiết kế đến năm 2025 khoảng 13%. Tại thời điểm khảo sát, lượng bùn sau khử nước bằng thiết bị ép phát sinh trung bình khoảng 8 tấn/ngày tại trạm XLNT Hòa Xuân và 20 tấn/ngày tại trạm XLNT Sơn Trà. Bùn sau ép của hai trạm XLNT có độ ẩm dao động từ 81-86% và pH dao động ở mức 6,7-7,3. Bùn trạm XLNT Sơn Trà có độ tro thấp hơn 1,5-1,7 lần trong khi tổng nitơ và hàm lượng phốt pho hữu hiệu (P2O5) cao hơn lần lượt là 2,5 lần và 1,4 lần so với bùn trạm XLNT Hòa Xuân. Bùn từ các trạm XLNT được vận chuyển chôn lấp tại Khu xử lý Khánh Sơn với chi phí cao và gây lãng phí tài nguyên từ bùn.